Bài phát biểu tại hội nghị của những người vận hành máy gặt đập liên hợp, 1 tháng Mười Hai năm 1935


Thưa các đồng chí, trước tiên cho phép tôi được chúc mừng các đồng chí về những thành công đã đạt được trên mặt trận thu hoạch. Những thành công này mang một ý nghĩa rất to lớn. Tính trung bình trên toàn bộ Liên Xô thì hiệu suất thực tế của mỗi tổ hợp máy gặt đập liên hợp đã tăng gấp đôi trong vòng một năm, cũng có nghĩa đây là một thành tựu vô cùng vĩ đại. Xét trong hoàn cảnh hiện nay ở nước ta, nơi mà số lượng người được đào tạo về kỹ thuật vẫn còn ít thì thành tựu này đặc biệt quan trọng. Đất nước chúng ta luôn luôn đặc trưng bởi tình trạng thiếu cán bộ được đào tạo về kỹ thuật, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Việc đào tạo kỹ thuật cho cán bộ trên phạm vi cả nước là một công việc hết sức khổng lồ. Nó đòi hỏi nhiều thập kỷ thực hiện. Và thực tế là trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, chúng ta đã biến những người con trai, con gái nông dân ngày hôm qua thành những người vận hành máy gặt đập liên hợp xuất sắc, vượt qua cả tiêu chuẩn của các nước tư bản, đồng nghĩa với việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật ở nước ta đang tiến hành với một tốc độ ngang những bước chân bảy dặm. Vâng, thưa các đồng chí, thành công của các đồng chí là vô cùng to lớn và quan trọng, các đồng chí hoàn toàn xứng đáng được lãnh đạo Đảng và Chính phủ khen ngợi.

Giờ hãy để tôi chuyển sang phần quan trọng nhất của vấn đề.

Người ta thường nói rằng chúng ta đã giải quyết được vấn đề lương thực. Tất nhiên, điều đó đúng nếu chúng ta đề cập đến thời kỳ mà chúng ta đang trải qua. Năm nay, chúng ta sẽ thu hoạch được hơn 5 tỷ rưỡi pút thóc. Con số này khá đủ để cung cấp cho toàn dân no bụng cũng như dành làm nguồn dự trữ cho bất kỳ trường hợp bất trắc nào xảy ra trong tương lai. Tất nhiên điều này không hề tồi tệ ở hiện tại. Nhưng chúng ta không thể tự giam hãm bản thân trong thời đại này. Chúng ta phải nghĩ về ngày mai, về tương lai trước mắt. Nếu chúng ta xem xét vấn đề theo quan điểm của ngày mai, kết quả đã đạt được hôm nay không thể làm hài lòng chúng ta. Vì vậy, hãy đặt câu hỏi rằng chúng ta sẽ cần khối lượng thóc là bao nhiêu trong tương lai ba hoặc bốn năm nữa? Chúng ta sẽ cần không ít hơn bảy hoặc tám tỷ pút thóc. Vấn đề là thế đấy, các đồng chí. Điều này có nghĩa là chúng ta phải ngay lập tức tiến hành các biện pháp để gia tăng sản lượng ngũ cốc ở nước ta từ năm này sang năm khác, và đến thời điểm đó chúng ta phải chứng minh đã chuẩn bị đầy đủ cho việc hoàn thành nhiệm vụ quan trọng nhất này. Ngày xưa, trước cách mạng, nước ta đã sản xuất được khoảng từ 4 đến 5 tỷ pút thóc mỗi năm, song câu hỏi ở đây là liệu lượng lương thực này có đủ hay không. Và câu trả lời là bất luận thế nào, tất cả bọn họ đều nghĩ là đủ vì hằng năm đều xuất khẩu từ 400 đến 500 triệu pút thóc. Đó là cách vấn đề tồn tại trong quá khứ. Tuy nhiên, dưới tình cảnh của Liên Xô chúng ta hiện nay thì vấn đề này rất khác. Tôi đã nói chúng ta phải ngay lập tức tự chuẩn bị cho việc gia tăng sản lượng ngũ cốc hằng năm lên bảy hoặc tám tỷ pút trong thời gian tới - khoảng ba hoặc bốn năm nữa. Như các đồng chí thấy, sự khác biệt không phải nhỏ. Bốn hoặc năm tỷ pút là một chuyện, bảy hoặc tám tỷ pút lại là một chuyện khác.

Vậy sự khác biệt này đến từ đâu? Chúng ta phải giải thích sự gia tăng khổng lồ về nhu cầu lương thực của đất nước mình như thế nào?

Xin trả lời là chỉ có thể giải thích bằng thực tế rằng đất nước ta bây giờ không giống với bản thân nó trong thời kỳ trước cách mạng.

Hãy bắt đầu với ví dụ thực tế là trong vài năm qua, ngành công nghiệp và các thị trấn đã phát triển ít nhất là gấp đôi so với ngày xưa. Hiện nay chúng ta có số lượng các thành phố, cư dân thành thị, số lượng các ngành công nghiệp và công nhân làm việc trong lĩnh vực công nghiệp ít nhất lớn gấp đôi so với ngày xưa. Điều này có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là chúng ta đã di dời vài triệu người lao động cực khổ từ nông thôn đến các thành phố, biến họ thành công nhân và người làm công, và giờ chính họ, cùng với những người lao động còn lại, thúc đẩy ngành công nghiệp của chúng ta. Nó cũng có nghĩa nếu ngày trước vài triệu người lao động vất vả này chỉ gắn bó với nông thôn và quen với việc sản xuất ngũ cốc thì bây giờ, ngược lại, họ không những không sản xuất ngũ cốc mà còn phải tự yêu cầu bản thân mình mang lương thực từ nông thôn đến thành phố. Từ đó, các thành phố của chúng ta sẽ phát triển và nhu cầu lương thực sẽ tăng lên.

Đó là nguyên nhân đầu tiên của việc gia tăng nhu cầu lương thực.

Tiếp tục, ngày xưa chúng ta có ít cây công nghiệp hơn bây giờ. Giờ thì chúng ta đang sản xuất lượng vải nhiều gấp đôi so với lúc trước. Đặc biệt với lanh, củ cải đường và các loại cây công nghiệp khác, chúng ta đang sản xuất ở quy mô lớn tới mức mà thời kỳ trước không thể nào sánh được. Vậy cái gì sẽ diễn ra tiếp sau chuyện này? Xin trả lời rằng chính những người tham gia sản xuất cây công nghiệp sẽ không thể tham gia đầy đủ vào việc trồng cây lương thực. Vì thế, chúng ta buộc phải có trữ lượng lương thực lớn dành cho cả những người tham gia sản xuất cây công nghiệp, từ đó mới có thể có khả năng gia tăng việc sản xuất cây công nghiệp lẫn canh tác bông, lanh, củ cải đường, hạt hướng dương, v.v… một cách đều đặn. Chúng ta bắt buộc phải gia tăng việc sản xuất cây công nghiệp một cách đều đặn nếu muốn phát triển ngành công nghiệp nhẹ cũng như ngành công nghiệp thực phẩm.

Nguyên nhân thứ hai của việc gia tăng nhu cầu lương thực nằm ở đó.

Tiếp theo, tôi đã nói rằng ngày xưa, mỗi năm nước ta sản xuất 4 hoặc 5 tỷ pút thóc. Bộ trưởng của chế độ Sa hoàng thời điểm đó từng tuyên bố: “Bản thân chúng ta sẽ thiếu đói, nhưng chúng ta vẫn phải xuất khẩu lương thực.”. Vậy ai là người chịu đói ở đây? Dĩ nhiên không phải các bộ trưởng của chế độ Sa hoàng rồi. Những người thực sự phải chịu đói ở đây là 20 hoặc 30 triệu người nông dân nghèo. Họ phải sống trong cảnh bữa đói bữa no để các bộ trưởng có thể gửi lương thực ra nước ngoài. Thực trạng chung của ngày xưa là như thế. Nhưng trong thời đại của chúng ta, tất cả mọi thứ đã thay đổi. Chính quyền Xô Viết không thể cho phép nhân dân thiếu đói. Từ hai đến ba năm nay, chúng ta đã không còn hiện tượng nghèo khổ, tình trạng thất nghiệp chấm dứt cũng như việc thiếu ăn đã biến mất. Chúng ta đang có những bước tiến vững chắc trên con đường dẫn tới sự thịnh vượng. Các đồng chí sẽ hỏi rằng thế 20 hoặc 30 triệu người nông dân nghèo kia đã trở thành gì? Câu trả lời là họ đã gia nhập các nông trang tập thể, lập nghiệp ở đó, và đang rất thành công trong việc xây dựng đời sống phồn vinh cho chính mình. Vậy điều này mang ý nghĩa gì? Nó có nghĩa giờ chúng ta cần nhiều lương thực hơn nữa để cung cấp cho các nông dân nghèo khổ xưa kia, vì những người nông dân nghèo khổ của ngày hôm qua – tức những người đã là nông trang viên hôm nay, những người lập nghiệp trong các nông trang tập thể, cần phải có đủ lượng thóc để xây dựng một cuộc sống ấm no. Các đồng chí biết họ phải có nó, và cần phải có nhiều hơn nữa.

Đó là lý do thứ ba cho nhu cầu lương thực khổng lồ ở nước ta.

Ngoài ra, giờ mọi người đều nói rằng điều kiện vật chất của người lao động cực khổ ở nước ta đã được cải thiện đáng kể, rằng cuộc sống ngày càng tốt hơn, hạnh phúc hơn. Điều đó, tất nhiên, là đúng. Nhưng kết quả là dân số đã bắt đầu nhân lên nhanh chóng hơn nhiều so với ngày xưa. Số lượng người chết đã giảm đi, số lượng trẻ em sinh ra đang tăng lên, và tốc độ tăng trưởng dân số thực tế không gì sánh được. Tất nhiên điều đó là tốt, và chúng ta hoan nghênh điều đó. (Thích thú.) Chúng ta hiện có lượng dân số tăng hằng năm khoảng ba triệu người. Như vậy nghĩa là mỗi năm, nước ta có mức tăng dân số bằng cả Phần Lan. (Cười.) Chà, kết quả dẫn đến việc chúng ta phải nuôi ngày càng nhiều người.

Vậy là các đồng chí tiếp tục có một lý do khác cho sự gia tăng nhu cầu về bánh mì.

Cuối cùng, một lý do nữa. Tôi đã nói về nhân dân và nhu cầu ngày càng tăng của họ với bánh mì. Nhưng thức ăn của con người không chỉ có bánh mì. Con người cũng cần các loại thịt cũng như chất béo. Sự phát triển của các thành phố, sự gia tăng số lượng cây công nghiệp, sự tăng trưởng dân số chung và một cuộc sống sung túc - tất cả những điều này đã dẫn đến nhu cầu về thịt và chất béo tăng lên. Vì lẽ đó, cần phải có một ngành chăn nuôi được tổ chức chặt chẽ, với số lượng lớn các loại vật nuôi lớn nhỏ khác nhau để có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người dân về sản phẩm thịt. Điều này là vô cùng rõ ràng. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành chăn nuôi sẽ thành không tưởng nếu không có trữ lượng lớn lương thực cho gia súc. Chỉ có một nền sản xuất ngũ cốc không ngừng phát triển và mở rộng mới tạo điều kiện cho ngành chăn nuôi phát triển.

Như thế là các đồng chí đã có thêm một lý do giải thích cho việc tại sao nhu cầu về lương thực ở nước ta lại gia tăng mạnh mẽ.

Thưa các đồng chí, đó là tất cả những thứ đã thay đổi căn bản bộ mặt đất nước chúng ta, cũng như đặt chúng ta trước một nhiệm vụ mang tính cấp thiết – nâng mức sản xuất ngũ cốc trong tương lai gần lên 7 hoặc 8 tỷ pút.

Vậy chúng ta có thể hoàn thành nhiệm vụ này không?

Có, không có nghi ngờ gì về việc chúng ta có thể làm được.

Vậy để hoàn thành nhiệm vụ này thì đòi hỏi những gì?

Đòi hỏi đầu tiên, hình thức doanh nghiệp phổ biến trong nền nông nghiệp phải là các nông trại lớn, chứ không nên là các nông trại nhỏ. Tại sao lại là nông trại lớn? Vì chỉ có nông trại lớn mới đủ khả năng làm chủ kĩ thuật hiện đại, áp dụng kiến thức nông học hiện đại ở mức độ phù hợp cũng như sử dụng hợp lý phân bón. 

Ở các nước tư bản, nơi hình thức xí nghiệp nông nghiệp phổ biến là nông trại tư nhân nhỏ, còn nông trại lớn được tạo ra thông qua việc làm giàu của số ít địa chủ cộng thêm việc phá sản của đa số nông dân thì đất của những nông dân bị phá sản sẽ vào tay của những địa chủ, trong khi bản thân những người nông dân kia, để không chết đói, buộc phải đi lao động như những bàn tay của địa chủ. Chúng tôi coi đây là một phương pháp sai lầm và đầy tai hại. 

Nó không phù hợp cho chúng ta. Vì thế, chúng ta đã phải thực hiện một phương pháp khác nhằm tạo ra các xí nghiệp nông nghiệp lớn. Cách đó chính là thống nhất các nông trại của tiểu nông thành các nông trang tập thể lớn, canh tác đất đai bằng lao động tập thể và tận dụng mọi lợi ích lẫn cơ hội do canh tác quy mô lớn đem lại. Đó chính là cách làm của các nông trang tập thể. Vậy hình thức canh tác tập thể quy mô lớn đã trở thành hình thức nông nghiệp phổ biến ở nước ta chưa? Câu trả lời là rồi, nó đã trở thành hình thức phổ biến. Khoảng 90 phần trăm nông dân nước ta giờ đây đang ở trong các nông trang tập thể. Nhờ đó, chúng ta có các xí nghiệp quy mô lớn trong nông nghiệp cũng như canh tác tập thể trở thành hình thức phổ biến nhất.

Đòi hỏi thứ hai, các nông trang tập thể của chúng ta, các trang trại lớn của chúng ta phải có đủ diện tích đất đai màu mỡ với việc canh tác. Thế thì các nông trang tập thể của chúng ta đã có đủ diện tích đất đai màu mỡ phù hợp với việc canh tác chưa? Rồi, họ có rồi. Các đồng chí hẳn đều biết rằng tất cả các vùng đất của bọn đế quốc, địa chủ và ku-lắc đã được giao cho các nông trang tập thể. Và các đồng chí cũng biết rằng những vùng đất này được giao vĩnh viễn cho các nông trang tập thể. Nhờ thế, các nông trang tập thể có đủ diện tích đất đai để phát triển tối đa việc sản xuất ngũ cốc.

Đòi hỏi thứ ba, các nông trang tập thể phải có đủ máy móc, máy kéo, máy nông nghiệp và máy gặt đập liên hợp. Chắc tôi không cần phải nói với các đồng chí rằng lao động chân tay thuần túy sẽ không đưa chúng ta tiến xa được. Do đó, cần phải có nhiều thiết bị kỹ thuật nhằm giúp các nông trang tập thể có thể phát triển sản xuất ngũ cốc. Vậy các nông trang tập thể đã sở hữu những thiết bị kỹ thuật này chưa? Rồi, họ có rồi. Và số lượng những thiết bị kỹ thuật này sẽ còn tăng lên theo thời gian.

Đòi hỏi cuối cùng, các nông trang tập thể phải có những con người, những cán bộ đủ khả năng áp dụng kỹ thuật nông nghiệp – tức những người đã làm chủ được các kỹ thuật này và học được cách đem chúng vào công việc. Vậy các nông trang tập thể có những con người, những cán bộ như vậy chưa? Rồi, họ cũng có rồi. Tất nhiên là không có nhiều, nhưng đã có những con người như thế. Chính hội nghị này - nơi có sự tham dự của những người vận hành máy gặt đập liên hợp cả nam lẫn nữ tốt nhất nước, những người chỉ đại diện cho bộ phận nhỏ trong đội quân những con người vận hành máy gặt đập liên hợp trong các nông trang tập thể - là bằng chứng cho thấy sự trưởng thành của những cán bộ như vậy trong các nông trang tập thể. Thưa các đồng chí, mặc dù đúng là những cán bộ theo yêu cầu ở trên vẫn còn ít cũng như đó là khó khăn lớn nhất của chúng ta, song không hề có căn cứ nào để nghi ngờ việc số lượng cán bộ sẽ gia tăng không phải theo đơn vị năm và tháng, mà là theo đơn vị ngày và giờ.

Từ những điều đề cập ở trên, có thể nói chúng ta có tất cả các điều kiện cần thiết để đạt mức sản lượng hằng năm là bảy hoặc tám tỷ pút thóc trong tương lai gần.

Đó cũng là lý do vì sao tôi nghĩ rằng nhiệm vụ cấp thiết mà tôi đề cập có thể chắc chắn được hoàn thành.

Cái chính bây giờ là phải cống hiến hết sức mình theo các cán bộ, cống hiến hết sức mình cho việc đào tạo cán bộ, giúp đỡ những người còn lạc hậu làm chủ được kỹ thuật nông nghiệp để theo thời gian, họ trở thành những con người có khả năng làm chủ kĩ thuật nông nghiệp lẫn thúc đẩy kĩ thuật nông nghiệp đi lên. Đó mới là thứ chính yếu, thưa các đồng chí.

Phải đặc biệt chú ý đến các tổ hợp máy gặt và người vận hành máy gặt đập liên hợp. Các đồng chí biết rằng phần công việc có trách nhiệm nặng nề nhất trong canh tác lương thực là thu hoạch. Thu hoạch là một công việc mang tính thời vụ - và nó không thích chờ đợi. Nếu các đồng chí thu hoạch đúng lúc – các đồng chí có vụ mùa thắng lợi, còn nếu các đồng chí trì hoãn việc thu hoạch – các đồng chí có vụ mùa thất bại. Cái quan trọng của máy gặt đập liên hợp là nó giúp thu hoạch đúng thời vụ. Đây là một nhiệm vụ rất to lớn và quan trọng, thưa các đồng chí.

Nhưng tầm quan trọng của máy gặt đập liên hợp không chỉ có thế. Tầm quan trọng của nó còn nằm ở chỗ giúp chúng ta thoát khỏi những thất thoát to lớn trong thu hoạch. Chính các đồng chí đều biết thu hoạch bằng máy gặt sẽ làm thất thoát lương thực rất nhiều. Trước tiên các đồng chí phải gặt lúa, sau đó gom lại thành từng bó, rồi lại chất thành từng đống, rồi lại tiếp tục mang sản phẩm mình thu hoạch được đến các máy tuốt - và tất cả những điều này có nghĩa là thất thoát nối tiếp thất thoát. Mọi người đều thừa nhận bằng hệ thống thu hoạch đó, chúng ta mất khoảng 20 đến 25 phần trăm sản lượng thu hoạch. Tầm quan trọng to lớn của máy gặt đập liên hợp là nó giảm thất thoát đến mức tối thiểu và không đáng kể. Các chuyên gia cho chúng tôi biết rằng, trong trường hợp các điều kiện khác đều giống nhau thì thu hoạch bằng máy gặt có sản lượng thu hoạch thấp hơn 10 pút trên mỗi héc-ta so với thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp. Nếu các đồng chí thử lấy ví dụ với diện tích một trăm triệu héc-ta cây ngũ cốc và tính toán, (như các đồng chí biết, chúng ta có diện tích trồng cây ngũ cốc lớn hơn nhiều) thì thiệt hại do thu hoạch bằng máy gặt sẽ lên tới một tỷ pút thóc. Giờ hãy cố gắng tổ chức thu hoạch hàng trăm triệu héc-ta này với sự trợ giúp của các máy gặt đập liên hợp, giả sử rằng chúng hoạt động ổn thì các đồng chí sẽ tiết kiệm được cả tỷ hạt thóc. Dễ thấy đây không phải là một con số nhỏ đâu các đồng chí.

Như vậy, các đồng chí đã biết tầm quan trọng to lớn của máy gặt đập liên hợp lẫn những người vận hành nó là như thế nào.

Đây là lý do tôi nghĩ rằng việc giới thiệu máy gặt đập liên hợp trong nông nghiệp và đào tạo đông đảo cán bộ vận hành máy gặt đập liên hợp, cả nam lẫn nữ, là nhiệm vụ hệ trọng hàng đầu.

Nói chung đây cũng là lý do tôi muốn số lượng những người vận hành máy gặt đập liên hợp cả nam lẫn nữ nên tiếp tục gia tăng, không phải theo ngày mà là theo giờ. Đồng thời, thông qua việc học những kỹ thuật sử dụng máy gặt đập liên hợp rồi dạy nó cho những người đồng chí của mình, họ về lâu dài sẽ trở thành những người chiến thắng thực sự trong lĩnh vực nông nghiệp ở nước ta. (Tiếng hoan hô lẫn vỗ tay lớn và kéo dài. Có nhiều tiếng hò reo "Stalin kính yêu của chúng ta muôn năm!")

Tôi xin nói thêm hai câu nữa thôi các đồng chí. Chúng tôi đây, những người trong đoàn chủ tịch, đã lặng lẽ trao đổi và quyết định rằng sẽ vô cùng thích hợp khi đề cử những người tham gia hội nghị này các giải thưởng cao quý nhất và những huân chương đặc biệt nhất - vì những đóng góp xuất sắc trong lao động của họ. Và các đồng chí, chúng tôi nghĩ sẽ giải quyết xong vấn đề này trong vài ngày tới. (Tiếng hoan hô lẫn vỗ tay lớn và kéo dài. Có nhiều tiếng hò reo "Stalin kính yêu của chúng ta muôn năm!")

Pravda
4 tháng Mười Hai 1935
Nguyễn Đức Anh dịch

Nhận xét

Bài đăng phổ biến