Về việc phân phối thu nhập không đúng ở Nông trang tập thể, 20 tháng Tư 1938


Hội đồng Dân ủy và Ủy ban Trung ương của Đảng cộng sản Liên Xô (B) nhận thấy rằng từ sự thắng lợi của phong trào nông trang tập thể và năng suất ngày càng tăng từ các cánh đồng của nông trang, thu nhập của các nông trang và nông trang viên đã tăng lên một cách đáng kể

Đồng thời, Hội đồng ủy dân ủy và ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô (B) có các bằng chứng cho thấy rằng một sự bất hợp lý rõ ràng trong thu nhập của các nông trang tập thể. Mặc dù việc quản lý nông trang tập thể được thực hiện bởi tổ chức Đảng và chính quyền các khu vực và nước cộng hoà, nhưng một phần đáng kể thu nhập của nông trang được chi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho chi phí sản xuất và quản lý hành chính, phần số ít còn lại mới được phân phối cho các nông trang viên để chi trả cho các công việc hàng ngày của họ. Điều này đã buộc các nông trang viên phải làm thêm công việc khác bên ngoài nông trang.

Ví dụ, tại Cộng hoà Xô viết Tartarie, trên 172 nông trang, trung bình chỉ có 28% thu nhập được phân phối cho người lao động; trong khu vực Gorki, trên 1.279 nông trang, chỉ có 33% thu nhập được phân phối cho người lao động. Ở một số khu vực và các nước Cộng hòa (khu vực Rostov, Voronieze và Riazan, Kazakhstan và những nước cộng hoà khác), có một số nông trang trong đó thu nhập hoàn toàn không được phân phối cho người lao động trong năm 1937 .

Hội đồng Dân uỷ và Ủy ban Trung ương của Đảng cộng sản Liên Xô (B) có sẵn các bằng chứng tương tự đối với các khu vực và các nước cộng hoà khác.

Thay vì liên tục quan tâm đến việc tăng thu nhập cho nông trang viên và kết hợp chính xác lợi ích cá nhân của nông trang viên với lợi ích xã hội của nông trại thì, ban quản lý của nông trại lại say mê với công việc quy mô lớn, với chi phí sản xuất quá mức và với các chi phí quản lý kinh tế và hành chính của những nông trại. Từ số tiền được trích lập cho các quỹ chung, chi tiêu cho các nhu cầu kinh tế, hành chính và văn hóa, không những không giảm mà trái lại, còn vượt quá nhiều so với tiêu chuẩn quy định của các khu nông nghiệp.

Thay vì quan tâm đến thu nhập của nông trang viên và kết hợp lợi ích xã hội của nông trang viên và nông trang tập thể, thì những người quản lý nông trang lại say mê với công việc tổ chức nền sản xuất lớn, chi phí sản xuất và quản lý kinh doanh quá lớn. Số tiền trích từ quỹ chung của nông trang dành để chi tiêu cho các nhu cầu kinh tế, chính trị, quản lý, không những không giảm, ngược lại còn vượt quá mức quy định chi tiêu trong nông nghiệp.

Theo quy định về tổ chức sản xuất tập thể trong nông nghiệp, ngân sách chi tiêu của ban quản lý nông trang chỉ được ấn định sau khi hội nghị các nông trang viên thông qua. Tuy nhiên, trên thực tế, một số ban quản lý nông trang tự ý thiết lập ngân sách chi tiêu riêng với các chi phí ngoài nhưng lại không thông báo cho tập thể nông trang biết và không được hội nghị các nông trang viên chấp thuận, không tính toán đến các kế hoạch chi tiêu khác. Các vị chủ tịch và thành viên ban quản lý nông trang không có thẩm quyền tự quyết định các khoản ngân sách chi tiêu, không được phép nếu chưa được hội nghị các nông trang viên tập thể thông qua; họ quên rằng họ hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước hội nghị nông trang viên tập thể. Các cơ quan kiểm soát đã không làm gì để thay đổi bộ máy của nông trang và đưa ra một kết luận chính thức về ngân sách chi tiêu của họ vào cuối năm.

Quy định của nông trang tập thể yêu cầu rằng tất cả công việc của nông trại tập thể phải được thực hiện bởi các thành viên của nông trang và chỉ trong những trường hợp cá biệt, việc tuyển dụng tạm thời của một số người lao động khác được chấp nhận. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có khá nhiều trường hợp do tổ chức công việc kém, ban lãnh đạo của nông trang tập thể đã chi một số tiền đáng kể để mướn người lao động bên ngoài, và điều này góp phần làm suy giảm thu nhập của nông trang và giảm thu nhập của nông trang viên.

Thay vì tập trung những nhiệm vụ chính, nhận thức những hạn chế và hiện thực hoá quá trình sản xuất, tăng thu nhập của nông trang tập thể, nhưng một số ban quản lý nông trang tập thể lại thực hiện các hành vi mà Đảng và Nhà nước đã nhiều lần lên án, bao gồm lãng phí trong quá trình sản xuất của nông trang bằng cách phân phối một cách rẻ mạt các sản phẩm của chính họ ngay cả bên trong hoặc bên ngoài nông trang, bằng sự cẩu thả trong việc vận chuyển hàng hoá, kết quả là thu nhập của chính nông trang viên bị giảm sút.

Lãnh đạo các tổ chức Đảng và Nhà nước các cấp, các khu vực và các nước cộng hoà không chú trọng vào công tác giải thích cho các nông trang viên về việc tăng cường thu nhập ở nông trang tập thể và việc gia tăng các quỹ xã hội của họ dưới các hình thức vật chất như các căn nhà, gia súc và máy móc (của nông trang); về việc giảm sử dụng quỹ xã hội đó để chi tiêu; giảm các khoản chi phí lớn như chi phí sản xuất và để phân phối phần lớn thu nhập cho các nông trang viên.

Lãnh đạo các tổ chức Đảng và Nhà nước phải xem rằng sự giả tạo về lạm phát, ngân sách chi tiêu ngày càng lớn trong nông trang, và việc suy giảm phân phối thu nhập cho nông trang viên là những hành vi sai trái, mang tính chất phá hoại công cuộc xây dựng nông trang tập thể.

Hội đồng Dân uỷ và Ủy ban Trung ương Đảng quyết định:

1/ Lên án các hành vi phá hoại nông trang tập thể, hành vi cẩu thả đối với công việc của nông trang và lãng phí nguồn của nông trang vào các chi tiêu không cần thiết trong công tác tổ chức sản xuất và các nhu cầu hành chính, kinh tế. Các uỷ ban khu vực của Đảng phải chấm dứt các hoạt động sai trái này.

2/ Bỏ ngay lập tức các hình thức phân phối thu nhập sai trái trong nông trang hiện nay và chuyển sang phân phối thu nhập không ít hơn 60-70% thu nhập của nông trang cho các nông trang viên trong tương lai.

3/ Xác lập rằng việc trích quỹ lập ngân sách chi tiêu sẽ không vượt quá 10% thu nhập của nông trang và ngân sách chi tiêu trong năm được tính toán cụ thể căn cứ trên thu nhập của nông trang trong năm trước đó.

4/ Ngân sách hàng năm phải được hội nghị các nông trang viên tập thể thông qua, ban quản lý không được sử dụng quá 70% ngân sách, trước khi có thể kết luận về vụ mùa thu hoạch trong năm, và 30% ngân sách còn lại phải đưa vào quỹ dự trữ và chỉ được sử dụng sau khi đã có kết luận về vụ mùa thu hoạch sau khi đã được hội nghị các nông trang viên tập thể kết luận.

Để thực hiện, điều 12 về quy chế nông trang tập thể sẽ được sửa lại như sau:

“Thu nhập của nông trang tập thể

a) Nộp cho Nhà nước các loại thuế do luật định, và trả hạn ngạch bảo hiểm.

b) Phân phối không ít hơn 60 - 70% thu nhập bằng tiền cho các thành viên của nông trang theo phân công công việc hàng ngày của họ.

c) Thanh toán các chi phí cần thiết cho nhu cầu sản xuất, sử dụng máy móc nông nghiệp, điều trị y tế cho gia súc, chống lại kẻ phá hoại, v.v.

d) Chi phí hành chính và kinh tế không vượt quá 2% thu nhập của nông trang.

e) Chi phí cho các nhu cầu văn hóa, huấn luyện quân sự và đào tạo cán bộ khác, tổ chức các trại ươm, lắp đài phát thanh.

f) Dự toán quỹ chi tiêu mua sắm năm sau cho các hạng mục gia súc và vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, thuê mướn nhân công bên ngoài, các khoản tín dụng ngân hàng; việc lập quỹ không vượt quá 10% thu nhập của nông trang.

Các khoản chi tiêu phải được lập rõ bằng biên lai của nông trang, không muộn hơn ngày thanh toán.

Ngân sách hàng năm để chi tiêu, phân phối sẽ không giá trị cho đến khi nó được hội nghị nông trang viên tập thể thông qua.

Ban quản lý chỉ có thể thực hiện các khoản chi đối với kế hoạch chi tiêu của ngân sách đã được vạch ra. Nghiêm cấm việc chi tiêu ngoài. Nếu muốn bổ sung chi tiêu, nó phải được trao đổi trước hội nghị nông trang viên.

Ngân sách hàng năm cho nhu cầu sản xuất của nông trang do hội nghị nông trang viên ấn định. Ban quản lý không được chi hơn 70% ngân sách trước khi có kết luận đánh giá vụ thu hoạch. 30% còn lại phải được dự trữ và chỉ được sử dụng sau khi có đánh giá cuối cùng của vụ thu hoạch, và sau quyết định của hội nghị nông trang viên tập thể.

Nông trang tập thể giữ quỹ trong tài khoản ngân hàng hiện có hoặc tại các sổ Tiết kiệm. Việc rút tài khoản chỉ được thực hiện bởi quyết định của ban quản lý nông trang, lệnh này có hiệu lực bằng chữ ký của Chủ tịch uỷ ban và chịu trách nhiệm trước các nông trang viên.

5/ Để thiết lập ngân sách chi tiêu, sau khi được hội nghị phê chuẩn, sẽ được trình đoàn chủ tịch của uỷ ban cấp huyện, nơi ngân sách chi tiêu được nộp vào tài khoản ngân hàng hoặc lập sổ tiết kiệm.

6/ Việc thuê lao động ngoài chỉ được phép khi có sự đồng ý của hội nghị. Các bí thư cấp huyện và chủ tịch uỷ ban cấp huyện không được phép dung túng cho những vi phạm điều 13 của điều lệ ác-ten nông nghiệp, trong đó cấm thuê và trả lương cho lao động ngoài nông trang, ngoại trừ các trường hợp đã được phê chuẩn bởi hội nghị nông trang viên tập thể.

7/ Các uỷ ban khu vực, và Uỷ ban Trung ương Đảng thiết lập lại công việc của mình phù hợp với việc đăng ký của nông trang không phải theo kết luận chính thức cuối năm mà là trong suốt cả năm.

8/ Chi nhánh ngân hàng Nhà nước, ngân hàng nông nghiệp chỉ cấp tín dụng cho nông trang trong trường hợp đã được hội nghị nông trang viên tập thể thông qua.

9/ Buộc các Uỷ ban khu vực, Uỷ ban Trung ương các Đảng cộng sản các nước cộng hoà, khu vực, phải đảm bảo rằng phải đưa ra công lý những kẻ chịu trách nhiệm về việc chi tiêu bất hợp pháp từ nguồn ngân sách của nông trang tập thể, vì những hành động này là phản bội lý tưởng chính nghĩa của nông trang tập thể và giúp đỡ kẻ thù của nhân dân.

V. M. Molotov
Chủ tịch Hội đồng dân ủy

J.Stalin
Bí thư Ủy ban Trung ương của Đảng cộng sản Liên Xô.

Pravda
20 tháng 4 năm 1938













.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến